👉 Chú ý: Quý vị lướt xuống dưới bài thấy ô “See Full Article” màu xanh, thì bấm vào nút ấy để xem đầy đủ nội dung bài viết nhé. Xin cảm ơn !
Vùng đất Vĩnh Long có một vị thế đặc biệt của vùng đồng bằng Sông Cửu Long, nằm ngay chính giữa hai nhánh sông chính của sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu, là nơi khởi nguồn của sông Cổ Chiên – một nhánh của Mekong.
Phía Bắc của Vĩnh Long giáp với Mỹ Tho, Đông giáp Bến Tre, phía Nam giáp với Trà Vinh và Cần Thơ, còn phía tây là tỉnh Sa Đéc xưa, nay thuộc Đồng Tháp. Từ tỉnh lỵ của Vĩnh Long đến Sài Gòn là khoảng cách 128km.
Tỉnh Vĩnh Long có 3 nguồn nước chính từ 3 con sông lớn đi qua, đó là sông Tiền, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, ngoài ra còn có vô số rạch và kinh đào xẻ ngang xẻ dọc khắp tỉnh. Những con rạch chính là Mang Thít, Sông Ngang, Long Hồ, Bà Kè, Vũng Liêm, Bà Phong, Cái Cá, Cái Cau. Sau khi Vĩnh Long là là thuộc địa của Pháp, chính quyền tỉnh đã cho đào nhiều con kinh để nối liền các con rạch với nhau, như là Kinh Cái Cau, kinh Chà Và, kinh Bocquet, kinh Ông Me, kinh Bưng Trường, Trà Ngoa, Huyên Thuyền… Những kinh rạch này đóng vai trò quan trọng trong việc tháo nước và dẫn nước để canh tác.
Về khí hậu của vùng đất Vĩnh Long xưa, trong cuốn chuyên khảo về tỉnh Vĩnh Long do hội nghiên cứu Đông Dương thực hiện năm 1911 đã ghi lại như sau:
“…một năm có 2 mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa, theo các đợt gió mùa xen kẽ. Gió mùa Đông – Bắc, tương ứng với mùa khô, kéo dài từ tháng 11 đến tháng tư. Mùa mưa bắt đầu với gió mùa Tây – Nam vào tháng 5 và kết thúc vào giữa tháng 11. Nhiệt độ cao và thay đổi từ 20 tới 30-32 độ C, nhiệt độ thấp nhất là vào đầu mùa khô, tháng 12 và tháng giêng, giao thời giữa gió mùa Đông – Bắc và gió mùa Tây – Nam là thời gian nóng nhất trong năm.
…
Tỉnh Vĩnh Long là vùng đất đặc biệt thấp và ẩm, nên đất canh tác chỉ thích hợp với việc trồng lúa. Sản lượng gạo trồng tại đây lớn và không ngừng gia tăng, chất lượng gạo cũng khá được ưa chuộng”.
Về địa hình, phần chuyên khảo này cũng cho biết Vĩnh Long không có rừng và núi, tuy nhiên về hướng Trà Vinh, người ta thấy có một số giồng (đất cát và cao hơn ruộng một chút), như giồng An Nhơn, giồng Thủ Bá, giồng Gòn, giồng Cô Hon.
Lịch sử vùng đất Vĩnh Long gắn liền với sự hình thành của phương Nam. Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam chính thức trở thành một đơn vị hành chính mang tên phủ Gia Định.
Năm 1714, đời chúa Nguyễn Phúc Chu, lúc này Vĩnh Long là trung tâm của châu Định Viễn, bao gồm một phần của Bến Tre ở mạn trên và Trà Vinh ở mạn dưới thuộc Long Hồ Dinh.
Năm 1732, chúa Nguyễn đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, đất Vĩnh Long thuộc Dinh Long Hồ.
Năm 1779, đổi tên thành Hoằng Trấn dinh. Giai đoạn từ năm 1780 đến năm 1805, đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1806, Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh.
Cái tên Vĩnh Long chính thức xuất hiện từ năm 1832, khi vua Minh Mạng đổi tên Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long.
Về ý nghĩa của tên gọi Vĩnh Long, đó là chữ Vĩnh trong chữ vĩnh viễn, vĩnh hằng, nghĩa là “mãi mãi”; Long có nghĩa là long trọng, nghĩa là “thịnh vượng, giàu có”. Tên Vĩnh Long thể hiện mong muốn nơi đây luôn luôn được thịnh vượng.
Từ thời điểm năm 1832 trở về sau, Vĩnh Long là một trong 6 tỉnh Nam kỳ, được gọi là Nam kỳ lục tỉnh dưới triều Nguyễn, cho đến khi tất cả 6 tỉnh này trở thành thuộc địa của Pháp từ năm 1867.
Cũng vào giai đoạn này, có một nhân vật lịch sử gắn liền với đất Vĩnh Long và có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của “Nam kỳ lục tỉnh”, đó là cụ Phan Thanh Giản, người được Hội nghiên cứu Đông Dương (vào đầu thế kỷ 20) mô tả là cương trực và tính khí mạnh mẽ.
Phan Thanh Giản sinh năm 1796 ở Vĩnh Long, đỗ tiến sĩ đầu tiên ở Nam kỳ, làm thị lang bộ Hộ, rồi thị lang bộ Binh, thượng thư bộ Hình, thượng thư bộ Lại, thượng thư bộ Binh. Năm 1862, Phan Thanh Giản được triều đình Huế cử làm Chánh sứ nghị hòa với Pháp ở Gia Định, ký hiệp ước nhượng 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa cho Pháp. Vì việc này, ông bị giáng làm Tổng đốc Vĩnh Long, và cũng vì vậy mà cho đến nay công – tội của ông vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Sau đó Phan Thanh Giản được phụ chức để làm chánh sứ sang Pháp, thăng Thượng thu bộ Hộ, sau đó làm Kinh lược đại thần đến trông coi 3 tỉnh còn lại của Nam kỳ là Hà Tiên, Vĩnh Long, An Giang. Năm 1867, Pháp lại kéo đến đòi 3 tỉnh này, Phan Thanh Giản không cản được, chọn cách quyên sinh để tỏ lòng trung liệt.
–
Trong cuốn chuyên khảo về Vĩnh Long của hội nghiên cứu Đông Dương thực hiện năm 1911, Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2017, đã nói về cụ Phan Thanh Giản như sau:
“Khi 3 tỉnh miền Tây bị chiếm đóng (năm 1867), Phan Thanh Giản đã là một cụ già ngoài 70 tuổi. Trong suốt cuộc đời dài làm quan, ông đã luôn phục vụ đất nước của mình với một lòng tận tụy và vô tư lợi tuyệt đối. Biến cố định mệnh chấm dứt cuộc đời của cụ là một trong những bất công của số mệnh mà chỉ có những tâm hồn lớn mới có thể chịu đựng không suy suyển. Cụ nhìn tương lai, những khiển trách của nhà vua về những lỗi lầm tuy không thuộc trách nhiệm của cụ và cụ vẫn muốn tránh, những chỉ trích và lên án đầy ác tâm của các kẻ thù chánh trị của cụ, nguy cơ đánh mất danh dự của mình, tất cả những thứ này, cụ đã nhìn với một tâm hồn kiên cường và bình tĩnh. Cụ đã bước ra khỏi đó, vĩ đại như người xưa. Sau khi chuẩn bị quan tài cho mình và sau khi viết một bức thư dài và cảm động gửi đô đốc de Lagrandiere, cụ cho gọi gia đình đã được cụ triệu tập về Vĩnh Long, long trọng khuyên nhủ các con không được phụ vụ Pháp, mà là sống an bình tại làng của họ, và ra lệnh phải giáo dục các cháu như người Pháp, đoạn, trước mắt mọi người trong gia đình, cụ uống một liều thuốc cực mạnh.
Đô đốc de Lagrandiere đã viết cho người con trai cả của cụ một bức thư phân ưu và ra lệnh đặt quan tài trên một chiếc ghe lớn, được thuyền kéo tới tận nơi cụ sinh ra ở làng Bảo Thạnh, gần cửa Ba Lai ở Bến Tre. Một đơn vị quân đội Pháp làm lễ mặc niệm cụ trước sự hiện diện của đông đảo dân chúng. Mộ của cụ, thật giản dị, mang tấm bia khắc chữ: Lương Khê Phan Tao nông chi mộ, nghĩa là “Tại nơi Lương Khê này, có mộ của cụ nông dân họ Phan”.
Sau khi Vĩnh Long thuộc về Pháp, hạt thanh tra Định Viễn được thành lập, lỵ sở đặt ở Vĩnh Long. Quyết định ngày 16/8/1867 đổi tên hạt thành tra Định Viễn thành hạt thanh tra Vĩnh Long.
Nghị định ngày 5/1/1876 của Thống đốc Nam kỳ chia địa bàn Nam kỳ thành 4 khu vực hành chính, mỗi khu vực có có một số tiểu khu hay hạt tham biện, hạt thanh tra Vĩnh Long đổi tên thành hạt tham biện Vĩnh Long.
Nghị định ngày 20/12/1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên gọi hạt tham biện trên quản hạt Nam kỳ là Tỉnh (Province) kể từ ngày 1/1/1900, từ đó hạt tham biện Vĩnh Long đổi thành tỉnh Vĩnh Long.
Từ năm 1951, tỉnh Vĩnh Long có thời gian ngắn đổi tên thành tỉnh Vĩnh Trà, đến 1954 thì chính quyền VNCH đổi lại thành Vĩnh Long như cũ.
Đầu năm 1976, Vĩnh Long đã sáp nhập với Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long, nhưng đến ngày 26 tháng 12 năm 1991 lại tách ra thành hai tỉnh riêng như cũ. Khi tách ra, tỉnh Vĩnh Long, gồm thị xã Vĩnh Long và 5 huyện: Bình Minh, Long Hồ, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 10 tháng 4 năm 2009, thành lập thành phố Vĩnh Long trực thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính thuộc thị xã Vĩnh Long cũ.
Một số hình ảnh Vĩnh Long xưa:
Trước năm 1975 khi bắt đầu vào trung tâm Vĩnh Long sẽ bắt gặp ngay ngọn tháp nằm sừng sững ở ngã ba Nguyễn Huệ (tên gọi khác là ngã ba Cần Thơ). Trên ngọn tháp bốn mặt này có một hàng chữ Hán, dịch nghĩa là: “Tiền Triều Đại Thần Phan Thanh Giản”.
Ngọn tháp này mang tên tháp Phan Thanh Giản.
Phan Thanh Giản là vị quan Kinh Lược Sứ đất Nam Kỳ của triều Nguyễn, luôn luôn trung thành với chủ nghĩa: “Trung Thần Bất Sự Nhị Quân”.
Trước đó ở vi trí ngã tư đường Phan Thanh Giản (nối liền với đường Lê Thái Tổ) và đường Lê Lai, ngay phía trước mặt Tòa Hành Chánh tỉnh Vĩnh Long (nay là UBND tỉnh Vĩnh Long) có một bức tượng bán thân của Phan Thanh Giản bằng đồng đen.
Sau Tết Mậu Thân, bức tượng được mang về thờ tại Văn Thánh Miếu, nằm trên đường từ Vĩnh Long sang Vĩnh Bình. Thay vào đó thì ngọn tháp Phan Thanh Giản được dựng lên tại ngã ba Nguyễn Huệ – Lê Thái Tổ – QL4.
Tháp Phan Thanh hình khối tháp tứ diện, đáy to đỉnh nhỏ, kiến trúc theo lối những kim tự tháp, bốn mặt đều quay ra đường lộ. Từ đàng xa phía cầu Tân Hữu, cầu Tân Bình hoặc dốc cầu Lộ mọi người đều nhìn thấy bóng dáng của ngọn tháp. Mặt tháp về phía đại lộ Nguyễn Huệ có gắn hai tấm bia bằng đá cẩm thạch vân trắng. Một tấm ghi chức tước, một tấm ghi sơ lược về tiểu sử cụ Phan Thanh Giản. Quanh ngọn tháp có một vòng rào bằng những trụ xi măng màu xám, hình những khẩu đại bác thuở xưa. Tháp Phan Thanh Giản bị đập bỏ vào tháng 5-1975.
Nhắc đến đất Vĩnh, không thể không nhắc đến ngôi trường Tống Phước Hiệp đã gắn bó với nhiều thế hệ. Đây là trường trung học lớn nhất tỉnh Vĩnh Long, ở địa chỉ số 106 Gia Long, gần ngã 3 sông Long Hồ – sông Cổ Chiên. Ngày nay ngôi trường này đã đổi tên thành Trường Trung học phổ thông Lưu Văn Liệt, và con đường Gia Long đằng trước trường nối dài với đường Tống Phước Hiệp cũng đổi tên thành đường 1/5 và 30/4.
Ngôi trường này đặt đặt theo tên của Tống Phước Hiệp từ năm 1961, là tên của danh tướng thời chúa Nguyễn đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Vĩnh Long.
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
_
Một số hình ảnh khác của Dòng nữ tu Mục Tử Nhân Lành:
_
_
_
_
__
_
_
_
_
_
_
_
_
Một số hình ảnh sông Cổ Chiên:
_
Những hình ảnh khác ở Vĩnh Long xưa:
Một số hình ảnh Vĩnh Long 100 năm trước:
–
–
_
_
–
–
_
–
_
_
_
–
_
Chùa Bà Thiên Hậu ở gần cầu Thiềng Đức
_
–
–
–
–
Đông Kha – chuyenxua.net
Hình ảnh: manhhai flickr